Cá mú là một trong những loài cá biển có thịt thơm ngon và giá trị kinh tế cao. Đây là loài được nuôi phổ biến ở các nước châu á như Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia.
Xét về tuổi thọ, tuổi thành thục lần đầu của cá múrơi vào khoảng 3 -4 tuổi . Đến giai đoạn thành thục, chúng sẽ có trọng lượng khác nhau tùy theo kích cỡ của từng loài. Thức ăn của cá mú đa dạng như cá nhỏ, loài giáp xác, động vật chân đầu hay động vật thân mềm. Ở giai đoạn cá con, chúng thường ăn thịt lẫn nhau.
Nuôi cá mú đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nông ngư dân ven biển nước ta. Nghề nuôi cá mú trước đây xuất hiện manh từ một vài hộ dân khoảng hơn chục năm ở Quảng Ngãi. Phong trào nuôi cá mú bắt đầu phát triển mạnh từ 3 – 5 năm trước và chủ yếu là bằng hình thức nuôi lồng.
Mô hình nuôi cá mú bằng lồng phụ thuộc nhiều vào môi trường nước tự nhiên. Do đó, để nuôi cá mú đem lại hiệu quả kinh tế, người nuôi cần tuân thủ các biện pháp kỹ thuật như sau:
Mục lục
Kỹ thuật nuôi cá mú thịt bằng lồng tre
Chọn vị trí đặt lồng nuôi: Chọn các vùng eo, vịnh, đầm, phá, ít gió bão, sóng êm nhẹ. Nhiệt độ nước từ 20oC trở lên, độ mặn bảo đảm dao động từ 10-33%o (phần ngàn). Nguồn nước trong sạch, tránh vùng bị ô nhiễm nước thải công nghiệp, nhiễm dầu… Mực nước duy trì tối thiểu phải đạt từ 1-2m (khi triều xuống thấp). Ngoài ra, còn phải chú ý chọn điểm nuôi dễ quan sát, theo dõi, bảo vệ và thuận tiện cho quá trình chăm sóc. Độ sâu tối đa từ 2,5-3m, lưu tốc từ 0,2-0,4 m/giây.
Bí quyết thiết kế lồng nuôi
Có thể nuôi cá mú bằng lồng lưới, lồng tre. Để dễ thực hiện và tiết kiệm đầu tư; cũng như tận dụng nguồn tre có sẵn địa phương thì nên dùng lồng tre để nuôi cá này.
Dùng nan tre dày 1-1,5cm, rộng 3-4cm, dài 1,5-2m (tùy theo độ sâu nơi đặt lồng mà xác định chiều dài thích hợp nhất). Lồng nuôi được thiết kế theo hình tròn có đường kính 2,5-3m, cao 1,5-2m. Xung quanh, ta bện cước từ 2-4 đường, đường giữa, dùng tre tốt uốn dẻo ràng quanh, có thiết kế tay cầm để di chuyển. Chú ý dùng cước loại có đường kính 0,18-0,2cm.
Nắp lồng cũng có thể làm bằng tre hoặc lưới cước; thiết kế 1 cửa có kích cỡ 60-60 cm hoặc 70-70 cm để có thể ra vào kiểm tra bên trong lồng. Đáy lồng cũng làm bằng sạp tre đan khít.Lồng được treo trên 4 cọc được đóng xuống nền đáy theo hình vuông hoặc hình chữ nhật, lồng cách đáy 0,4 – 0,5m và cao hơn mặt nước 0,3 – 0,5m.
Chọn cá giống nuôi thịt: Chọn cá nuôi có kích cỡ từ 8-12cm, lanh lẹ, khỏe mạnh, không bị sây sát, dị tật, màu sắc đặc trưng của giống cá muốn nuôi.
Mật độ nuôi nuôi cá mú phù hợp
Thường từng địa phương nuôi có điều kiện nguồn nước, nhiệt độ khác nhau. Ngoài ra, có nơi nuôi cá mú ghép với một số loại cá khác thì mật độ cũng khác. Ở vùng nước tốt, đủ thức ăn, nguồn nước có nhiệt độ thấp. Mật độ thả dày hơn từ 40-50 con/m3. Ở các nơi nuôi, trung bình mật độ thả từ 15-35 con/m3. Có thể thả nuôi thêm các loại cá khác chung lồng như cá dìa, cá hồng… Cần chú ý là thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát. Tắm trong 20-25 phút trước khi thả cá vào lồng nuôi.
Các điểm cần lưu ý khi chăm sóc và nuôi cá mú thịt
Thức ăn của cá mú là các loại thủy, hải sản sống. Ta có thể dùng các loại thức ăn sau đây: nhuyễn thể tươi, cua, ghẹ, cá vụn các loại, thịt các loại này còn tươi; đem băm nhỏ vừa đủ miệng cá táp.
Tập cho cá ăn như thế nào?
Những ngày đầu ta để cá đói. Sau đó, thả thức ăn từ từ vào, giả như thức ăn là sinh vật sống hoạt động. Cá sẽ táp mồi. Cứ làm như thế sau một thời gian ngắn để cá thấy quen với vị mồi. Sau đó chúng ta có thể làm với thao tác nhanh hơn. Tuy nhiên, cần tránh thức ăn bỏ vào nhiều và nhanh quá. Cá ăn không kịp sẽ rơi xuống đáy lồng là cá mú sẽ không ăn.
Một ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm và chiều tối. Khi cho cá ăn nên rải đều thức ăn ra, tránh tụ tập một chỗ.
Lượng thức ăn cho cá bao nhiêu là đủ?
Lượng thức ăn thường chiếm từ 5-10% trọng lượng cá nuôi trong lồng. Thường thời tiết thay đổi đột ngột, nhiệt độ nước và dòng chảy thay đổi nhiều, cá ít ăn lại, thành thử, những ngày mưa bão, chỉ cho cá ăn 1 lần và giảm trọng lượng thức ăn lại từ 1/4 – 1/2 lượng thức ăn ngày thường.
Thường xuyên kiểm tra lồng nuôi, khoảng 3-5 ngày cọ rửa, vệ sinh các nan tre, hoặc lưới một lần, tháo gỡ các vật cản, rác rưởi bám vào lồng, làm cho lồng thông thoáng, cá ít bị bệnh vặt, mặc dù cá mú rất ít khi bệnh.
Theo dõi lượng thức ăn hàng ngày
Theo dõi thức ăn hàng ngày dư thừa ra sao, để điều chỉnh liều lượng lại cho thích hợp, dọn dẹp thức ăn rơi xuống đáy và vệ sinh đáy lồng.
Hàng tháng phải kiểm tra, theo dõi để kịp thời lựa cá lớn trội tách ra nuôi riêng, để tránh trường hợp cá lớn ăn cá bé hoặc cá lớn cắn cá nhỏ hơn, làm sây sát và có thể chết. Ngoài ra, nếu có điều kiện ta dùng mái chèo khuấy nước trong lồng vào những ngày khí áp thấp để cá có đầy đủ không khí mà không bị ngộp, sinh ra kém ăn hoặc chết.
Thu hoạch cá mú khi đến mùa
Nuôi trong lồng thì thu hoạch rất dễ dàng. Nuôi 6-8 tháng, cá đạt trung bình từ 0,5 – 0,8 kg/con là có thể thu hoạch. Tuy nhiên, cần lưu ý là canh thời gian nuôi sao cho trước mùa lạnh là thu hoạch xong, vì khi nhiệt độ Ê 18oC cá ngừng ăn, không lớn, đối với các vùng nuôi ở phía Bắc và miền Trung bộ, còn các nơi khác, ít lạnh, thì không quan trọng.
Kết luận
Hiện nay, nghề nuôi cá mú đang là nghề đạt hiệu quả cao và có xu hướng được ngư dân quan tâm nhiều. Nghề này mang lại giá trị kinh tế cho người dân ven biển nước ta. Đặc biệt là nếu bà con nuôi cá mú bằng lồng, chi phí đầu tư không nhiều nhưng lại mang lại hiệu quả cao.
Nguồn: kythuatnuoitrong.edu.com