Lưu ý trong phòng trị bệnh Vibriosis trên cá mú nuôi thương phẩm

mất:5 phút, 23 giây để đọc.

Nhiễm trùng huyết xuất huyết gây ra bởi vi khuẩn Vibrio hay còn gọi là Bệnh Vibriosis. Bệnh này cũng thường liên quan đến bệnh nhọt đỏ, do Streptococcus sp. Bệnh này đã được ghi nhận ở các loại cá mú: Epinephelus malabaricus, E. tauvina, E. bleekeri và E. coioides. Bệnh Vibriosis có vùng phân bố tương đối rộng. Đã phát hiện ở ở Brunei Darussalam, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Kuwait, Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Philippines, Việt Nam….

Ở Việt Nam, tình trạng cá mú chết hàng loạt đã từng xảy ra vào năm 2013 tại vùng nuôi thủy sản xã Xuân Thịnh (thị xã Sông Cầu, Phú Yên). Ca chết với biểu hiện lở loét khắp cơ thể cũng tương tự như ở xã Bình Thuận, Bình Sơn, Quảng Ngãi. Vậy, bệnh Vibrios xảy ra do nguyên nhân từ đâu? Các trị bênh như thế nào để giảm rủi ro về năng suất cho người dân? Cùng làm rõ hơn vấn đề này qua nội dung bài viết dưới đây.

Nguyên nhân gây bệnh Vibriosis

Nguyên nhân gây bệnh Vibriosis

Các tác nhân gây bệnh của Vibriosis là các vi khuẩn thuộc chi Vibrio. Ví dụ như: Vibrio parahaemolyticus, V alginolyticus, V Vulnificus và V.carchariae.

Vibrio là một chi của vi khuẩn Gram âm. Chúng sở hữu một hình cong-que (dấu phẩy). Do đó, người ta còn gọi là “phẩy khuẩn”. Tất cả các thành viên của chi là cử động dể dàng và có cực roi với lớp vỏ. Các loài Vibrio thường có hai nhiễm sắc thể. Đây là điều khác biệt của Vibrio với các vi khuẩn khác. Mỗi nhiễm sắc thể có nguồn gốc sao chép riêng biệt, độc lập, và được bảo tồn cùng nhau theo thời gian trong chi.

Triệu chứng bệnh Vibriosis

Các giai đoạn bị ảnh hưởng

Vi khuẩn có thể ảnh hưởng đến cá mú ở giai đoạn cá giống, cá con, cá trưởng thành và cá bố mẹ.

Triệu chứng lâm sàng

ibrio parahaemolyticus (1), V.alginolyticus (2), V.Vulnificus (3)

Dấu hiệu đầu tiên của bệnh là chán ăn hoặc không ăn, cơ thể sẫm màu, xuất hiện các đốm đỏ trên thân. Cá có thể lờ đờ, bơi gần mặt nước. Cá mú bị ảnh hưởng của bệnh có thể mất cân bằng khi bơi. Lúc nay, chúng thể hiện hành vi bơi lội bất thường. Một trong những dấu hiệu của bệnh là lở loét cơ thể và có thể bị xuất huyết vây, hậu môn và đuôi cá. Thối vây, thường bắt đầu bởi các dấu hệu mòn đầu vây và dần dần bị hoại tử. Mờ đục giác mạc mắt cũng là dấu hiệu phổ biến của bệnh. Xuất huyết trong ở khoang bụng và xuất huyết nội tạng.

Biều hiện bệnh Vibriosis ở cá mú bố mẹ loài Epinephelus coioides gồm các biểu hiện chính dưới đây:

– Các tổn thương da và xuất huyết ở phần lưng.

– Vây ngực xuất huyết, cho thấy vây bị thối và

– Chảy máu ở bụng.

Trong trường hợp cá mú nhiễm V.carchariae, có triệu chứng viêm dạ dày và ruột biểu hiện ruột sưng có chứa dịch màu vàng. Những biểu hiện này có thể quan sát được bằng mắt thường.

Bệnh có khả năng gây tử vong từ 10% đến 50%. Đồng thời bệnh ảnh hưởng lên bầy đàn tùy thuộc vào vùng nuôi và sự quản lý.

Quá trình lây truyền

Biểu hiện bệnh Vibriosis ở cá mú bố mẹ loài Epinephelus coioides

Sự lây lan của bệnh do Vibrio gây ra có tương quan với độ mặn cao (30-35ppt). Bệnh có thể lây truyền qua nước hoặc từ cá tạp khi cho cá mú ăn. Nhiễm trùng dễ có khả năng khi cá bị nhiễm ký sinh trùng khác. Hoặc có thể do chấn thương cơ học trong quá trình vận chuyển và phân loại.

Phân bố bênh Vibriosis

Nhiều trường hợp nhiễm bệnh do vi khuẩn Vibrio sp. gây ra, đã được phát hiện ở Australia, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Đài Loan, Thái Lan trên nhiều loài thủy hải sản khác nhau. Các sự giảm sút gần đây trong ngành nuôi trồng thủy hải sản ở Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh, Philippines và Trung Quốc chủ yếu là do tác động của nhóm vi khuẩn Vibrio sp.

Phòng trị bệnh Vibriosis

Phương pháp phòng ngừa

Phương pháp phòng ngừa

Cần tránh làm trầy xước cá trong quá trình thả, lấy mẫu, thay lưới, phân loại hoặc thả nuôi với mật độ quá đông. Chỉ thả cá mú với mật độ nuôi vừa phải. Chất lượng nước phải được quản lý tốt, và duy trì khử khuẩn, thay nước đều đặn. Không làm cá bị sây sát hay trầy xước trong quá trình nuôi. Hạn chế tác nhân gây bệnh có nguồn gốc từ cá tạp. Không cho cá ăn thức ăn tươi sống bị ôi, thiu. Vào các tháng trước mùa xuất hiện bệnh vi khuẩn xảy ra (mùa hè và nhất là vào lúc giao mùa), sử dụng vitamin tổng hợp và các khoáng chất nhằm tăng cường sức kháng bệnh cho cá.

Hàng ngày theo dõi sức ăn, hoạt động của cá và môi trường nước. Khoảng 3-5 ngày cọ rửa lưới một lần cho thông thoáng nước, tăng sức nổi của lồng. Với lồng tre 10 -15 ngày cọ rửa đáy lồng một lần. Hàng tháng phải phân lọc con lớn, trội để nuôi riêng do cá mú tranh ăn mạnh, con lớn át con bé. Khi thiếu mồi ăn, đói, chúng ăn lẫn nhau hoặc làm trầy xước da con khác.

Phương pháp chữa trị

Bệnh có thể được kiểm soát bằng phương pháp tắm nước ngọt cho cá trong vòng 10 – 15 phút. Cá bị ảnh hưởng của bệnh có thể được điều trị bằng axit oxalinic trộn với thức ăn ở mức 20 mg/kg cá.

Hoặc có thể dùng Terramycin thêm vào thức ăn ở mức 7,5 g/kg trong 5 ngày. Tiếp tục giảm xuống còn 3,75 g/kg trong 5 ngày tiếp theo, cũng cho thấy hiệu quả trong điều trị.

Điều trị tắm Prefuran trong 1 giờ với tốc độ 2 ppm cũng có thể được thực hiện (tuy vậy phương pháp này cần được tham vấn ý kiến chuyên môn của cơ quan thú y thủy sản về các điểm cần xem xét trước khi sử dụng kháng sinh và danh sách các chất chống nhiễm trùng được khuyến nghị sử dụng cho cá biển dùng làm thực phẩm).

Nguồn: tepbac.com

, ,

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *