Một số điều cần lưu ý để phòng bệnh đầu vàng ở tôm sú

mất:4 phút, 39 giây để đọc.

Bệnh đầu vàng ở tôm là bệnh xuất hiện phổ biến ở tôm sú, tôm thẻ chân trắng ôm rảo và nhiều loại tôm biển khác bên cạnh bệnh đốm trắng. Đây là căn bệnh thủy sản khá nguy hiểm. Bệnh xuất hiện tại Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ,… Ở Việt Nam, tôm nhiễm bệnh đầu vàng hiều khi thời tiết thay đổi thất thường, trong khoảng thời gian giao mùa, đặc biệt tại những vùng nuôi tôm ở ven biển có độ mặn cao. Khi đàn tôm nhiễm bệnh có thể chết rất nhanh một cách hàng loạt chỉ trong thời gian ngắn.

Nguyên nhân gây bênh đầu vàng ở tôm sú

Bệnh đầu vàng ở tôm

Tác nhân gây bệnh đầu vàng tôm sĩ là virus hình que kích thước 44±6×173±13nm. Nhân của virus có đường kính gần bằng 15 nm, chiệu d́ài có thể tới 800 nm. Cấu trúc acid nhân là ARN có đặc điểm gần giống họ Rhabdoviridae hoặc nhóm virus dạng sợi của họ Paramyxoviridae. Một số nghiên cứu gần đây đã cho virus bệnh đầu vàng gần giống họ Coronaviridae (theo V. Alday de Graindorge & T.W. Flegel, 1999). Chúng có cấu trúc ARN, bao gồm:

– Yellow head virus (YHV): khiến tôm biến màu vàng nhạt ở phần mang và carapace.

– Gill- Associated Virus (GAV): đuôi tôm bị biến đỏ. Phần đầu ngực và mang biến từ màu hồng sang màu vàng.

– Lymphoid Organ Virus (LOV): tồn tại trong tế bào máu của tôm

Triệu chứng của bệnh

Triệu chứng

Biểu hiện đầu tiên tôm phát triển rất nhanh và ăn nhiều hơn mức bình thường. Đột ngột tôm dừng ăn, sau một hai ngày tôm dạt vào gần bờ và chết.

– Mang và gan tuỵ có màu vàng nhạt, toàn thân có màu nhợt nhạt.

– Bệnh có thể gây ra tỷ lệ chết nghiêm trọng đến 100% trong vòng 3-5 ngày.

– Khi tôm nhiễm bệnh đầu vàng kiểm tra tiêu bản máu thấy có dấu hiệu bất thường: Nhân tế bào hồng cầu thoái hoá kết đặc lại hoặc bị phá huỷ phân mảnh.

– Kiểm tra mô bệnh học tế bào có hiện tượng hoại tử ở nhiều cơ quan. Đồng thời xuất hiện các thể vùi trong tế bào chất, nhân thoái hoá kết đặc và phân mảnh của nhiều tế bào khác nhau: hệ bạch huyết (Lymphoid), tế bào mang, tế bào kẽ gan tuỵ, tế bào biểu bì ruột.

Phân bố của bệnh đầu vàng

Bệnh phân bố như thế nào?

Boonyaratpalin và CTV, 1992 lần đầu tiên mô tả bệnh đầu vàng gây chết tôm sú nuôi ở miền Trung và miền nam Thái lan. Đặc biệt nguy hiểm cho các vùng nuôi thâm canh qua 1 số năm. Virus đầu vàng có thể liên quan đến đợt dịch bệnh của tôm sú nuôi ở Đài loan năm 1987-1988. Những nơi khác thuộc Đông Nam: Indonesia, Malaysia, Trung quốc, Philippine gặp ít. Tuy nhiên nguy hiểm cho tôm sú nuôi (Lightner, 1996). Bệnh thường xảy ra ở các ao nuôi có điều kiện môi trường xấu và những vùng có mật độ trại cao. Bệnh có thể xuất hiện sau khi thả giống 20 ngày thường gặp nhất 50-70 ngày ở các ao nuôi tôm sú thâm canh. Ngoài ra bệnh còn gặp ở một số loài tôm tự nhiên khác: tôm thẻ, tôm bạc (lớt), tôm rảo…

Ở Việt Nam các vùng nuôi tôm sú của các tỉnh phía Bắc, miền Trung và Nam Bộ đã có tôm bị bệnh đầu vàng gây tôm chết (Theo Bùi Quang Tề, 1994-2001 và Đỗ Thị Hoà, 1995).

Bệnh đầu vàng lây truyền theo đường nằm ngang. Virus trừ tôm nhiễm bệnh bài tiết ra môi trường. Hoặc có thể một số tôm tự nhiên cũng nhiễm bệnh đầu vàng sẽ lây truyền cho các tôm trong ao nuôi. Có thể một số loài chim nước đã ăn tôm bị bệnh đầu vùng từ ao khác và bay đến ao nuôi. Nó đã mang theo các mẩu thừa rơi vào ao nuôi.

Phương pháp chẩn đoán bệnh

– Nhận biết triệu chứng bệnh.

– Nhuộm màu mô bào, tế bào máu nhận thấy nhân tế bào bị thoái hóa đông đặc.

– Phân tích PCR.

Phòng trị bệnh đầu vàng ở tốm sú

Phòng trị bệnh đầu vàng cho tôm sú

Áp dụng theo phương pháp phòng bệnh tổng hợp. Tránh vận chuyển tôm tơ nơi cá bệnh đến nơi chưa phát bệnh để hạn chế sự lây lan vùng lân cận. Những tôm chết vớt ra khỏi ao, tốt nhất là chôn trong vôi nung hoặc đốt. Nứớc tơ ao tôm bệnh không thải ra ngòai. Có thể xử lý bằng vôi nung hoặc bằng clorua vôi (theo phương pháp tẩy ao). Xem xét tôm thường xuyên, nếu phát hiện có dấu hiệu bệnh, tốt nhất là thu hoạch ngay. Nếu tôm quá nhỏ không đáng thu hoạch thì cần xử lý nước ao trước khi tháo bỏ.

Chuẩn bị ao nuôi thật tốt, diệt các loài giáp xác mang mầm bệnh trong ao nuôi, rào lưới,… Nạo vét vùng đáy ao và bón vôi. Sau đó phơi ao từ 5 – 7 ngày rồi cấp nước vào ao. Trong suốt vụ nuôi, cần bổ sung các chế phẩm vi sinh xử lý nước ao nuôi tôm để kiểm soát mầm bệnh.

Thường xuyên theo dõi sự phát triển của tôm. Nếu thấy xuất hiện dấu hiệu bệnh tốt nhất là thu hoạch ngay. Nếu thấy tôm còn quá nhỏ thì cần xử lý nước ao nuôi tôm trước khi tháo bỏ.

Nguồn: tepbac.com

, , ,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *