Nuôi nghêu, ngao không khó, tuy nhiên, nghêu, ngao thường mắc một số bệnh do bệnh Perkinsus gây ra. Cho đến nay, ký sinh trùng là Perkinsus đã gây ra tỷ lệ tử vong cao và cái chết trên diện rộng của nhiều loài nhuyễn thể quý trên toàn thế giới. Vì vậy, người nuôi cần phát hiện bệnh sớm và có biện pháp xử lý kịp thời để giảm thiệt hại về kinh tế.
Để giảm thiệt hại cho người chăn nuôi, Bộ Thú y đề xuất thành lập các cơ quan chuyên trách để tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản. Đồng thời, khi ngao chết, bà con được hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch bệnh, quản lý đất ruộng và một số biện pháp xử lý. Mời bà con cùng tìm hiểu để phòng tránh cho nghêu và các bệnh trên nghêu.
Tác nhân gây bệnh Perkinsus
Tác nhân gây bệnh cho các nhuyễn thể hai mảnh vỏ chủ yếu là do nhóm ký sinh trùng đơn bào nội ký sinh Perkinsus sp. Trong đó, hai loài hay gây bệnh là Perkinsus marinus và Perkinsus olseni. Đây là bệnh được Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) đưa vào danh sách các bệnh bắt buộc phải khai báo và kiểm dịch trên động vật nhuyễn thể. Perkinsus marinus là ký sinh trùng đầu tiên được phát hiện trên nhuyễn thể nuôi.
Chu kỳ sống của Perkinsus sp. gồm ba giai đoạn chính: Giai đoạn dinh dưỡng (trophozoite), giai đoạn tăng trưởng (hypnospore), giai đoạn bào tử động (zoospores).
Ký sinh trùng Perkinsus sp. có thể biến thái từ giai đoạn thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ trong khoảng nhiệt độ nước 20 – 35oC. Trong đó, nhiệt độ 30 – 35oC được xem là tối ưu cho quá trình biến thái từ thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ vì thời gian biến thái xảy ra nhanh nhất (sau một ngày ủ). Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, đây là một loài rộng muối vì bào tử nghỉ được phát hiện ở tất cả các nghiệm thức độ mặn khác nhau, kể cả ở mức 0‰. Tuy nhiên, quá trình hình thành bào tử nghỉ diễn ra nhanh hơn ở mức độ mặn >15‰ (xuất hiện bào tử nghỉ trong 1, 2 ngày đầu ủ).
Triệu chứng nhận biết bệnh Perkinsus
Kiểm tra bệnh tích
Kiểm tra bệnh tích thấy: Nhuyễn thể hai mảnh vỏ gầy rạc, mô chảy nước, co màng áo, tuyến tiêu hóa nhợt màu; Đôi khi có tổn thương tạo thành áp xe ở tuyến sinh dục.
Sự tăng sinh của Perkinsus sp. gây ra phá vỡ các mô liên kết và biểu mô. Trên một số vật chủ có tạo thành áp xe ngẫu nhiên, các mụn mủ đường kính cỡ 8 mm. Bào tử Perkinsus sp. xuất hiện từng đám trên màng áo, mang, mô liên kết tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục biểu hiện là những nốt sần màu nâu trắng hoặc những cái nang trên mặt của màng áo, mang, chân, ruột tuyến tiêu hóa; thận, tuyến sinh dục.
Biểu hiện triệu chứng
Biểu hiện chủ yếu của bệnh là nhuyễn thể hai mảnh vỏ sinh trưởng chậm. Tuyến sinh dục chậm phát triển, giảm sức sinh sản và làm chậm chu kỳ sinh sản. Vật nuôi nổi lên cát, mở vỏ và chết hàng loạt. Bệnh xảy ra ở đối tượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ như hàu, vẹm, nghêu, trai ngọc, trai tai tượng, bào ngư… Bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập trung vào mùa hè và đầu mùa thu. Khi nhiệt độ tăng cao trên 15oC. Sau đó giảm dần vào mùa đông và đầu mùa xuân khi nhiệt độ từ 9oC đến 10oC. Vì vậy tỷ lệ nhiễm bệnh và tỷ lệ chết cao nhất thường xảy ra vào đầu mùa thu. Perkinsus sp. phát triển mạnh ở độ mặn 25‰ và không chịu được độ mặn thấp hơn 15‰.
Phân bố
Perkinsus sp. thường ký sinh trên mang, màng áo, tế bào biểu mô ruột. Các tổ chức mô liên kết của tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục của động vật nhuyễn thể. Perkinsus sp. có thể tồn tại dai dẳng suốt vòng đời vật chủ. Trên thế giới, loại tác nhân này đã được nghiên cứu trên nhiều đối tượng nhuyễn thể hai mảnh như: hàu, vẹm, trai, điệp, ngao và gần đây là trên nghêu lụa. Ở Việt Nam, Ngô Thị Thu Thảo (2008) đã phát hiện ký sinh trùng Perkinsus sp. trên nghêu lụa (Paphia undulata) ở vùng biển Kiên Giang và Bà Rịa – Vũng Tàu. Năm 2007, Perkinsus olseni cũng đã được phát hiện trên trai tai tượng (Tridacna crocea) của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ để làm cảnh (Sheppard và Phillips, 2008).
Các báo cáo cho thấy, Perkinsus đã gây ra tỷ lệ chết cao lên tới 95%. Chúng gây ra cái chết hàng loạt cho nhiều loại nhuyễn thể có giá trị trên toàn thế giới. Villalba và ctv (2004) cho biết,
- Perkinsus sp. gây hoại tử mô.
- Giảm tăng trưởng. Giảm khả năng sinh sản.
- Giảm sự tích trữ năng lượng của mô vật chủ.
- Gây ra tỷ lệ chết cao cho vật chủ của nó.
Cơ chế lây truyền Perkinsus sp. xảy ra trực tiếp giữa động vật thân mềm mà không cần vật chủ trung gian. Giai đoạn lây nhiễm là lúc bào tử động có 2 roi chuyển sang giai đoạn cơ thể dinh dưỡng; sau khi xâm nhập vào các mô của vật chủ. Nhuyễn thể hai mảnh vỏ có tỷ lệ nhiễm bệnh cao. Với tỷ lệ chết lên đến 95% khi điều kiện môi trường bất lợi đối với vật chủ.
Phương pháp phòng bệnh Perkinsus
Chẩn đoán
Có thể chẩn đoán bệnh bằng cách sử dụng phương pháp PCR (Polymerase Chain Reaction) hoặc bằng phương pháp nuôi cấy (Thu mẫu tùy thuộc vào kích cỡ của nhuyễn thể hai mảnh vỏ: Nhuyễn thể hai mảnh vỏ giống lấy từ 10 con/mẫu đến 15 con/mẫu; trưởng thành lấy từ 5 con/mẫu đến 10 con/mẫu).
Phòng bệnh
Theo khuyến cáo của Bộ NN&PTNT, để phòng bệnh do ký sinh trùng Perkinsus sp. gây ra, người nuôi cần thực hiện các biện pháp sau:
- Căn cứ vào kết quả quan trắc môi trường và thời tiết. Người nuôi tuyệt đối không nên thả giống vào thời điểm thời tiết không thuận lợi.
- Duy trì mật độ thả thích hợp 180 – 200 con/m2, cỡ giống nuôi 400 – 600 con/kg. Dưới 250 con/m2 đối với cỡ giống nuôi 500 – 800 con/kg. 250 – 300 con/m2 đối với cỡ giống 800 – 2.000 con/kg.
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra các yếu tố môi trường nước như: nhiệt độ, độ mặn… ở bãi ngao. Để khuyến cáo, cảnh báo cho để khuyến cáo cho người nuôi.
- Trong trường hợp, ngao (nghêu) đạt kích cỡ thu hoạch. Cần khẩn trương thu hoạch tránh thiệt hại xảy ra. Đối với ngao (nghêu) chưa đạt kích cỡ thu hoạch. Cần chủ động san thưa mật độ không để mật độ quá dày.
- Nếu phát hiện ngao (nghêu) chết, lập tức thu gom, xử lý để tránh lây lan sang các cá thể còn sống. Có biện pháp khai thông các vùng đọng nước để tránh hiện tượng đọng nước cục bộ. Tránh nhiệt độ tăng cao vào buổi trưa.
Nâng cao kỹ thuật nuôi
Theo đó, các cơ quan chuyên môn hướng dẫn người nuôi các biện pháp phòng bệnh như:
- Chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, khỏe mạnh và có kết quả xét nghiệm âm tính với tác nhân gây bệnh nguy hiểm (Perkinsus).
- Mật độ thả nuôi thưa.
- Vệ sinh bãi ngao hàng ngày, định kỳ 1-2 tháng/lần hoặc khi có hiện tượng ngao chết bất thường.
- Thu mẫu xét nghiệm ký sinh trùng Perkinsus tại các vùng nuôi để đánh giá mức độ nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, thống kê diện tích nuôi trong quy hoạch, ngoài quy hoạch. Quản lý thả nuôi trong vùng quy hoạch nơi có đủ điều kiện tốt cho ngao sinh trưởng. Đặc biệt, không nuôi ngao ở những nơi nước nông có thời gian phơi bãi dài từ 3-4 giờ trở lên. Vì sẽ làm cho ngao bị chết do nắng nóng mùa hè hoặc lạnh mùa đông. Không nuôi ở những nơi quá gần cửa sông. Do môi trường bị thay đổi đột ngột trong mùa mưa hoặc nguồn nước ô nhiễm từ sông đổ ra.
Đồng thời, tuyên truyền, phổ biến mùa vụ thả nuôi, mật độ thả nuôi trung bình theo từng vùng nuôi. Tổng hợp và hướng dẫn kỹ thuật nuôi ngao phù hợp tập quán. Kỹ thuật thả nuôi của người dân và đảm bảo an toàn dịch bệnh. Khi có sự biến động về thời tiết, hoặc có hiện tượng ngao chết bất thường cần tiến hành quan trắc (nước, bùn). Thông báo các biến động, cần thiết có thể hướng dẫn phun nước lên mặt bãi để giữ ổn định môi trường.
Nguồn: kythuatnuoitrong.edu.vn