Do sản lượng lươn thu được thông qua nhân giống còn thấp nên hầu hết lươn nuôi ngày nay đều có nguồn gốc tự nhiên. Mặc dù lươn có sức chịu đựng tốt nhưng sức đề kháng của lươn bị giảm do điều kiện của bể nuôi khác với môi trường tự nhiên. Nguyên nhân là do quá trình đánh bắt gây rung lắc mạnh, lươn bị đói sau khi trữ nhiều ngày do không được cho ăn. Trong quá trình nuôi, sự thay đổi đột ngột của thời tiết, môi trường nước, thức ăn, nơi cư trú cũng khiến sức khỏe của lươn bị suy giảm, tạo cơ hội cho vi khuẩn, ký sinh trùng tấn công gây hại.
Hiện nay, hầu hết lươn nuôi đều bị bệnh do ký sinh trùng, thường là bệnh đóng dấu, tuyến trùng và bệnh đỉa. Bài viết này giới thiệu các triệu chứng, cách phòng và chữa các bệnh thường gặp ở lươn.
Bệnh tuyến trùng trên lươn
Nguyên nhân gây bệnh do ký sinh trùng đường ruột gây nên. Tuyến trùng có màu trắng, dài khoảng 1 cm, đầu bám vào niêm mạc phá hoại mô. Hình thành bào nang gây viêm ruột sưng đỏ. Nếu bệnh nặng lỗ hậu môn lươn bị sưng đỏ, rối loạn tiêu hóa; lươn yếu, hậu môn sưng đỏ, lươn hoạt động yếu ớt, kiệt sức và chết dần.
Để hạn chế lươn mắc bệnh này cần sử dụng thức ăn đảm bảo chất lượng. Định kỳ 3 – 5 ngày trộn men tiêu hóa vào thức ăn với lượng 5 – 10 g/kg thức ăn. Trị bệnh bằng các loại thuốc thú y thủy sản có tác dụng diệt nội ký sinh trùng. Ví dụ như VimeClean trộn vào thức ăn cho lươn với lượng 1 kg/4 tấn lươn, cho ăn liên tục 3 ngày. Ngoài ra có thể sử dụng tỏi tươi, xay nhuyễn, kín trộn vào thức ăn với lượng 400 g/10 kg; cho ăn liên tục trong 3 – 5 ngày.
Bệnh sốt nóng
thường bị trong điều kiện nuôi với mật độ nuôi dày, ôxy hòa tan thấp, thức ăn thừa làm môi trường nuôi ô nhiễm. Khi đó, lươn mất cân bằng sinh lý, cơ thể tiết nhiều dịch nhầy. Lươn có biểu hiện xáo động trong bể, cuốn nhau thành từng búi, đầu lươn sưng phồng to, chết hàng loạt. Để phòng bệnh cần giữ môi trường nuôi luôn trong sạch bằng phương pháp định kỳ thay nước và xử lý nước bằng men vi sinh. Nâng cao mực nước trong trong bể, thả bèo, che mát để giảm và tránh hiện tượng phân tầng nhiệt độ nước.
Khi lươn có biểu hiện bị bệnh, sử dụng CuSO4 0,07% tạt xuống ao nuôi với liều lượng 5 ml/m3 nước. Nếu nước và bùn đất ô nhiễm nặng, lươn rúc xuống bùn chết nhiều cần vớt lươn ra khỏi ao, bể để thay nước và bùn đất.
Bệnh đóng dấu
Bệnh xảy ra khi lươn bị xây xát, khi đó các vi khuẩn, ký sinh trùng sẽ bám vào vết thương. Chúng sinh sống, phát triển dần thành những vết loét lớn. Trên mình lươn xuất hiện những vết hình tròn hoặc bầu dục màu đỏ xen lẫn với các vùng da bị giập nát. Nếu bệnh nặng, đuôi lươn sẽ bị rụng, bơi lội khó khăn. Đầu lươn thường ngóc lên khỏi mặt nước để thở, lươn mệt mỏi, yếu dần rồi chết.
Ngoài sử dụng Cenplex Cu, bà con có thể dùng thuốc trộn vào thức ăn cho lươn ăn liên tục trong 5 ngày như: Vime-fenfish 500, 1 lít/2,5 tấn lươn, hoặc dùng Sulfamidine 0,5gr/50kg lươn. Bôi thuốc tím (Potassium permanganate) trực tiếp lên vết loét.
Bệnh nấm thủy mi
Còn gọi là bệnh nấm nước, bọ gòn. Bệnh do nấm kí sinh gây nên, những sợi nấm bám chặt vào da lươn; hút chất dinh dưỡng, làm lươn mất máu, yếu dần rồi chết. Bệnh thường xảy ra vào mùa lạnh. Khi bị bệnh trên thân lươn có các đám sợi hình bông bám. Để phòng bệnh cho lươn, cần sát trùng sạch sẽ bể nuôi và tắm lươn bằng muối ăn với nồng độ 2 – 3‰.
Cách chữa trị: Xử lý nước bằng Cenplex Cu, liều dùng khoảng 10g/m3 nước. Xử lý lần đầu nấm sẽ rơi rụng, liên tục vài lần nữa lươn sẽ liền vết ghẻ.
Bệnh đỉa
Do đỉa bám vào phần đầu lươn, phá hoại mô bì, hút máu. Khiến vi trùng xâm nhập gây viêm nhiễm, lươn yếu, kém ăn. Dùng Cenplex Cu, liều lượng 5-10g/m3 nước trong bể nuôi lươn. Liên tục vài lần sẽ dần liền các vết viêm nhiễm.
Ngoài các bệnh do ký sinh trùng gây nên, lươn nuôi còn mắc một số bệnh do lỗi kỹ thuật như:
- Ăn phải mồi trộn thuốc nên nội tạng bị hư.
- Thả nuôi với mật độ dày trong điều kiện nước nhiều chất thải.
- Thức ăn thừa gây thiếu ôxy nghiêm trọng.
- Mức nước trong bể thấp hoặc bể nuôi không được làm mát khiến nhiệt độ nước tăng cao…
Các yếu tố bất lợi trên khiến lươn tiết nhiều nhớt. Độ nhớt của nước tăng lên, đầu lươn sưng to, chết hàng loạt. Để phòng bệnh, cách duy nhất là chọn mua giống có nguồn gốc rõ ràng. Thả nuôi với mật độ vừa phải, thường xuyên vệ sinh bồn bể.
Nguồn: tepbac.com